• 41 & 51 Nguyễn Huệ, Phường Vĩnh Ninh, TP Huế
Cấp cứu 24/7
(0234)3837777
Đường dây nóng
0962871919
Giới Thiệu Kỹ Thuật Điện Cơ Đồ

I. ĐIỆN CƠ ĐỒ LÀ GÌ ?

Điện cơ đồ là phương pháp thăm dò được sử dụng để nghiên cứu phản ứng điện của thần kinh và cơ, đánh giá sự mất phân bố thần kinh của cơ. Dùng để chẩn đoán hoặc tiên lượng các bệnh lý liên quan đến rễ và dây thần kinh, bệnh lý chỗ nối dây thần kinh hoặc bệnh lý cơ

Máy đo điện cơ Neurowerk EMG

II. CHỈ ĐỊNH

Điện cơ đồ được bác sỹ chỉ định thực hiện khi bệnh nhân có các triệu chứng của bệnh thần kinh - cơ:

- Dị cảm, cảm giác kiến bò

- Tê

- Yếu cơ

- Đau cơ hay chuột rút

- Đau chi trên, chi dưới

Ngoài ra, điện cơ đồ cần thiết giúp chẩn đoán và loại trừ một số bệnh lý sau:

- Bệnh cơ, ví dụ: loạn dưỡng cơ

- Bệnh lý tại khe tiếp hợp thần kinh-cơ, ví dụ: nhược cơ

- Bệnh của thần kinh ngoại biên, ví dụ: hội chứng ống cổ tay

- Bệnh neuron vận động trên hay dưới, ví dụ: xơ cứng cột bên teo cơ

- Bệnh lý rể thần kinh, ví dụ: thoát vị đĩa đệm

III. CÁC KĨ THUẬT ĐO

1. Đo dẫn truyền vận động và cảm giác các dây thần kinh ngoại biên

Là kỹ thuật không xâm nhập, sử dụng các điện cực bề mặt đặt trên da để đo tốc độ dẫn truyền các dây thần kinh ngoại biên chi trên và chi dưới ở 2 hoặc nhiều điểm. Đo dẫn truyền thần kinh để đánh giá chức năng của các dây thần kinh, đặc biệt là khả năng dẫn truyền của hệ thống thần kinh vận động cảm giác của cơ thể.

Dựa vào các thông số nghiên cứu như thời gian tiềm, tốc độ dẫn truyền, biên độ và hiện tượng phát tán để chứng tỏ dây thần kinh bị tổn thương bao myelin, hay sợi trục hay cả hai. Các tình trạng này có thể gặp trong các bệnh lý do chèn ép, bệnh lý thần kinh ngoại biên như hội chứng Guillain-Barré hay CIDP.

2. Sóng F, thời gian tiềm và tần số 

Khi kích thích dây thần kinh vận động, xung thần kinh di chuyển theo cả 2 hướng: ly tâm và hướng tâm. Hướng ly tâm cho đáp ứng co cơ (CMAP), dùng để đo thời gian tiềm và tốc độ dẫn truyền. Hướng hướng tâm, đi ngược về phía các rễ trước của tủy sống, kích động các neuron vận động của sừng trước tủy sống. Một số neuron phát ra xung thần kinh mới xuôi xuống theo hướng ly tâm, tạo nên một co cơ nữa. Trên màn hình của máy điện cơ, sau đáp ứng M còn có một đáp ứng co cơ nữa, gọi là sóng F. Thông thường hay dùng chuỗi 10 kích thích, và tính tần số xuất hiện sóng F (F wave frequency), qui thành %.

Sóng F cũng để khảo sát gián tiếp tốc độ dẫn truyền vận động: muốn tìm hiểu về tốc độ dẫn truyền của đoạn thần kinh ở cao, như từ nách lên tới cổ, hay từ khoeo chân tới thắt lưng nếu tốc độ dẫn truyền ở đoán dưới là bình thường, nhưng thời gian tiềm của sóng F lại dài ra, suy ra đoạn bị chậm dẫn truyền nằm ở đoạn gốc của dây thần kinh, các đám rối thần kinh, hoặc rễ trước.

- Hội chứng Guillain-Barré: trong giai đoạn sớm, có thể dịch não tủy chưa có phân ly Albumin – tế bào, thời gian tiềm sóng F đã có thể kéo dài, hoặc mất hẳn sóng F.

- Trong bệnh neuron vận động, tần số sóng F suy giảm, sóng F trở nên đơn điệu về hình dạng.

Đo dẫn truyền thần kinh để đánh giá chức năng của các dây thần kinh, đặc biệt là khả năng dẫn truyền của hệ thống thần kinh vận động cảm giác của cơ thể.

Đánh giá đáp ứng muộn (sóng F và phản xạ H) để đánh giá chức năng của rễ và đám rối thần kinh, khác với đo dẫn truyền là đánh giá đoạn xa của dây thần kinh.

3. Phản xạ Hoffmann: (H-reflex)

Cách ghi phản xạ H: kích thích điện vào thân dây thần kinh tọa ở hố khoeo chân. Với cường độ kích thích thấp, sóng co cơ chưa xuất hiện hoặc đã có nhưng biên độ còn rất thấp, phía sau nó là 1 sóng có biên độ cao hơn và cách một khoảng cách cố định. Đó chính là phản xạ H. Khi cường độ kích thích tăng dần lên, biên độ co cơ trực tiếp sẽ cao dần, và tối đa là trở thành CMAP. Khi tăng dần cường độ kích thích như vậy, biên độ của phản xạ H cũng cao dần, nhưng tới một mức nào đó sẽ nhỏ đi, rồi biến mất.

Cơ chế sinh lý của phản xạ H: xung kích thích đi theo các sợi cảm giác (nằm trong thân dây thần kinh hỗn hợp cảm giác và vận động), đi ngược về phía tủy sống, tới rễ sau của tủy sống, rồi tới sừng trước, gây co cơ. Cung phản xạ H là cung phản xạ 1 synap kinh điển của tủy sống, bao gồm cả đường cảm giác, lẫn đường vận động.

Ứng dụng

- Phản xạ H ở chân (cơ dép/cơ sinh đôi cẳng chân) giúp khảo sát khả năng tổn thương rễ S1. Phản xạ H ở cơ gấp cổ tay quay (Flexor carpi radialis) cho thông tin về dẫn truyền cảm giác hướng tâm ở đoạn gần gốc của tay (rễ C6 và C7).

- Giúp chẩn đoán phân biệt loại bệnh đa dây thần kinh chỉ tổn thương sợi cảm giác, trong khi các sợi vận động alpha còn nguyên vẹn.

- Mất phản xạ H là 1 dấu hiệu sớm nhất để chẩn đoán hội chứng Guilain – Barré.

- Người ta còn nghiên cứu phản xạ H trong một số bệnh lý thần kinh trung ương như: bệnh Parkinson, loạn trương lực (dystonia), chấn thương tủy sống…

 4. Test chẩn đoán nhược cơ bằng điện sinh lý

Chẩn đoán và theo dõi những rối loạn tiếp hợp thần kinh cơ (bệnh nhược cơ, hội chứng nhược  cơ).

Cách đặt điện cực kích thích và ghi giống như khi làm về đo tốc độ dẫn truyền vận động. Cường độ kích thích trên mức đa (120%). Tìm vị trí đặt điện cực ở các cơ bàn tay, vai và mặt để hình dạng sóng rõ ràng nhất. Kích thích lặp lại liên tiếp chuỗi 10 xung điện ở tần số 3 Hz (3 kích thích/ giây). Nếu biên độ co cơ thứ 4 hoặc 5 so với biên độ cơ cơ đầu tiên giảm khoảng 5% thì nghi ngờ bệnh nhược cơ. Nếu suy giảm trên 10% và được thấy ở ít nhất 3 cơ bắp thì coi như chắc chắn bị bệnh nhược cơ.

5. Phản xạ nhắm mắt và đo tốc độ dẫn truyền vận động của dây thần kinh VII ngoại biên

Đặt điện cực ghi ở cơ vòng mi cả 2 bên, khi kích thích điện vào một dây thần kinh trên ổ mắt sẽ tạo được 2 đáp ứng co cơ tách biệt nhau về thời gian bao gồm 1 thành phần sớm và 1 thành phần muộn, giúp khảo sát được dẫn truyền của dây V, VII và các nhân của chúng cũng như các đường liên hợp trong cầu và hành tủy.

Chẩn đoán các tổn thương cơ nằm trên cung phản xạ như: u góc cầu tiểu não (nếu chèn ép vào dây V hoặc dây VII), liệt dây VII ngoại biên, tổn thương dây V nhánh trên ổ mắt, hội chứng Guillain-Barre, viêm đa dây thần kinh mạn tính.

6. Điện cơ kim (Electromyography hoặc needle EMG)

Điện cơ kim là kỹ thuật sử dụng điện cực kim đồng tâm đâm trực tiếp vào cơ để ghi lại hoạt động điện tại đó. Có 4 bước khám nghiệm điện cơ kim.

Hoạt động điện do đâm kim (Insertional activity)

Bệnh nhân thư giãn cơ, đâm điện cực kim xuyên vào cơ, nhằm khảo sát các hoạt động điện do kim đâm gây ra.

Hoạt động điện tự phát (Spontaneous activity)

Để kim nằm im trong bắp cơ đang thư giãn hoàn toàn (không co cơ), nhằm tìm các hoạt động điện tự phát của cơ đó nếu có. Thường gồm điện thế co giật sợi cơ và sóng nhọn dương giúp đánh giá tình trạng mất phân bố thần kinh. Dựa vào mức độ xuất hiện, chia thành 4 độ:

(+1) tăng điện thế do đâm kim;

(+2) có ở ít nhất là 2 vị trí được thăm dò trong bắp cơ đó;

(+3) Bất kỳ tại vị trí nào của bắp cơ cũng có thể thấy các điện thế tự phát;

(+4) Các sóng điện thế tự phát rất nhiều, gần như tràn ngập màn hình.

Điện thế của đơn vị vận động (motor unit action potentials – MUP/MUAP) 

Cho bệnh nhân co cơ một cách nhẹ nhàng để các đơn vị vận động phát xung rời rạc, khảo sát hình ảnh của từng điện thế của đơn vị vận động. MUP (hay MUAP) là sóng thu được trên màn hình khi các sợi cơ thuộc 1 đơn vị vận động cùng co. Mỗi MUAP là của 1 đơn vị vận động, nó được đặc trưng bởi: biên độ, thời khoảng và số lượng pha.

Hình ảnh kết tập (recruitment pattern)

Yêu cầu bệnh nhân co cơ mạnh dần lên, khi co cơ còn nhẹ, chỉ có các MUAP đơn lẻ xuất hiện rời rạc. Khi co cơ mạnh hơn, sẽ có nhiều đơn vị vận động khác tham gia vào co cơ, trên màn hình xuất hiện nhiều MUAP hơn, gọi là hình ảnh kết tập. Tới mức co cơ cực đại thì trên màn hình dầy đặc các MUAP, không còn thấy đường đẳng điện nữa, ta gọi là hình ảnh giao thoa (interference pattern).

  • Trong bệnh cơ: có kết tập sớm, nhanh có hình ảnh giao thoa với biên độ thấp.

4 . THÔNG TIN LIÊN HỆ

Phòng Điện cơ đồ, Đơn vị Thăm dò chức năng

Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế

- Địa chỉ: Tầng 1, nhà D, 41-51 Nguyễn Huệ, Phường Vĩnh Ninh, TP Huế

- Hotline: 0234.388.9878

- Email: dv.tdcn@bvhuemed-univ.edu.vn

- Fanpage: Đơn vị Thăm dò chức năng - Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế

Các kỹ thuật cao