Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Nguyện, BSNT Lò Thị Minh Luyến
Bộ môn Tai Mũi Họng, Trường Đại học Y-Dược, Đại học Huế
Cholesteatome ống tai ngoài là bệnh lý hiếm gặp trên lâm sàng với tỷ lệ chỉ khoảng 0,5/1000 – 1/1000 bệnh nhân đến khám vì các vấn đề liên quan đến tai. Cholesteatoma được hình thành bởi biểu mô lát tầng sừng hóa, tích tụ các mảnh vụn keratin bong tróc và có đặc tính gây ăn mòn xương. Bệnh lý này được chia thành cholestetoma nguyên phát và cholestetoma thứ phát. Trên lâm sàng, bệnh nhân thường biểu hiện với chảy mủ tai và đau âm ỉ mạn tính do mô biểu bì xâm lấn vào xương ống tai ngoài. Sự phối hợp giữa osteoma và cholesteatoma là cực kỳ hiếm gặp và chỉ được đề cập rải rác trong y văn; đến nay vẫn chưa có tài liệu nào bàn luận cụ thể hướng điều trị osteoma xương thái xương kèm cholesteatoma.
Chụp cắt lớp vi tính xương thái dương trước mổ đóng vai trò quan trọng trong đánh giá mức độ và phạm vi xâm lấn của osteoma cũng như sự có mặt của cholesteatom, từ đó quyết định việc tư vấn và lập kế hoạch trước phẫu thuật. Trên cắt lớp vi tính xương thái dương độ phân giải cao, cholesteatoma ống tai ngoài điển hình là khối mô mềm trong ống tai ngoài, gây ăn mòn xương kế cận, có thể kèm theo mảnh xương nhỏ bên trong khối. Điều trị cần được cá thể hóa dựa trên triệu chứng, kích thước osteoma và mức độ lan rộng của cholesteatoma. Các phương pháp bao gồm phẫu thuật nội soi đường trong ống tai khi tổn thương còn giới hạn trong ống tai ngoài, hoặc mở đường sau tai, mở rộng ống tai và làm sạch toàn bộ khoang bệnh nhằm tránh tái phát, kết hợp chỉnh hình khuyết thành ống tai nếu cần thiết.
Vừa qua khoa Tai Mũi Họng - Mắt - Răng Hàm Mặt, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế đã tiếp nhận và xử trí một bệnh nhân nữ 32 tuổi vào viện vì xuất hiện u sau tai trái đã lâu kèm chảy dịch tai, nghe kém tai bên trái. Khối gồ sau tai trái gây chít hẹp dần ống tai ngoài, tình trạng nghe kém và chảy dịch tai ngày càng tiến triển nên bệnh nhân đến khám và được chỉ định nhập viện.
Bệnh nhân được chụp cắt lớp vi tính xương thái dương cho thấy hình ảnh khối tỷ trọng mô mềm đồng nhất lấp đầy ống tai ngoài trái, phát triển vào xoang chũm, bào mòn thượng nhĩ, phá hủy xương thành trước ống tai, tiêu xương đe, không thấy mảnh xương rời bên trong (Hình 1 A, B – mũi tên màu đỏ). Bên cạnh đó ghi nhận khối đặc xương ở mặt ngoài xương thái dương bên trái, bờ không đều, đáy rộng, lồi vào ống tai ngoài chít hẹp lòng ống tai ngoài trái (Hình 1 A, B – Mũi tên màu vàng). Tai phải chưa ghi nhận bất thường.
Dựa trên đặc điểm lâm sàng và hình ảnh, cùng việc bệnh nhân không có tiền sử phẫu thuật hay chấn thương trước đây, khối gồ sau tai xuất hiện đã lâu kèm ống tai ngoài hẹp dần, chẩn đoán phù hợp nhất là osteoma xương thái dương gây hẹp ống tai, biến chứng cholesteatoma ống tai ngoài trái giai đoạn IIIC theo He và cộng sự.
Hình 1. Hình ảnh cắt lớp vi tính xương thái xương dương tai trái.
Hình A. Mặt cắt axial; B. Mặt cắt coronal
Mũi tên màu đỏ: hình ảnh khối tỷ trọng mô mềm đồng nhất lấp đầy ống tai ngoài trái. Mũi tên màu vàng: Hình ảnh osteoma đáy rộng, lồi vào ống tai gây chít hẹp lòng ống tai ngoài bên trái.
Bệnh nhân sau đó đã được chỉ định phẫu thuật tiệt căn xương chũm cấp cứu. Quá trình mổ kéo dài hơn 5 tiếng, gặp nhiều khó khăn do khối u xương đặc ngà, mật độ rất cứng và bệnh tích lan rộng, gây bất lợi đáng kể trong việc xác định các mốc giải phẫu từ đường vào xương chũm. Sự xâm lấn của cholesteatoma cùng sự biến dạng cấu trúc xương làm cho quá trình bóc tách và định hướng trở nên phức tạp hơn so với các trường hợp thông thường. Tuy nhiên với sự nỗ lực và kinh nghiệm của TS. BS. Nguyễn Nguyện cùng toàn bộ ê – kíp phẫu thuật, đã tìm ra điểm đột phá giúp định hướng rõ hướng tổn thương. Từ đó đã loại bỏ thành công osteoma, mở rộng khoang bệnh loại bỏ bệnh tích, đồng thời tiến hành tạo hình ống tai nhằm khôi phục lại hình dạng giải phẫu và đảm bảo dẫn lưu – thông khí phù hợp, giảm nguy cơ tái phát.
Hình 2. Phẫu thuật tiệt căn xương chũm
A. Bộc lộ và khoan bỏ khối osteoma; B. Thăm dò và loại bỏ bệnh tích
Kết quả giải phẫu bệnh sau phẫu thuật cho thấy bệnh phẩm thu được hoàn toàn phù hợp với cholesteatoma và osteoma xương thái dương, qua đó xác nhận chẩn đoán đã được đặt ra trước mổ, đồng thời giúp loại trừ các tổn thương khác có biểu hiện tương tự trên lâm sàng và hình ảnh học ( điển hình là Keratosis obturans). Theo dõi hậu phẫu không ghi nhận bất kỳ dấu hiệu tái phát hay biến chứng liên quan tới phẫu thuật như nhiễm trùng, tổn thương dây thần kinh mặt, cho thấy quá trình hồi phục diễn ra thuận lợi.


