U nhầy mũi xoang là tổn thương dạng nang, lành tính gây ra bởi tình trạng tắc nghẽn dẫn lưu của các xoang cạnh mũi. Khối u thường tiến triển chậm và ăn mòn thành xoang, khối u có thể phát triển lớn gây chèn ép các cấu trúc lân cận như ổ mắt, thần kinh thị, sọ não… Về chẩn đoán bệnh, u nhầy ở giai đoạn sớm thường không có triệu chứng. Vì thế trên lâm sàng bệnh nhân thường tới khi khối u lớn chèn ép các cấu trúc xung quanh gây ra các triệu chứng như: lồi mắt, song thị, sưng phồng góc trên hốc mắt, mờ mắt... và có thể có hoặc không các triệu chứng của viêm mũi xoang như: nghẹt mũi, chảy mũi, đau đầu.
Phương pháp chủ yếu để điều trị u nhầy mũi xoang là cắt bỏ bằng phẫu thuật và tái lập dẫn lưu xoang. Tùy thuộc vào vị trí, mức độ xâm lấn các cấu trúc kế cận của khối u, các phẫu thuật viên sẽ lựa chọn các phương pháp phẫu thuật phù hợp như phẫu thuật nội soi mũi xoang, mổ đường ngoài hay kết hợp cả hai đường trên. Hiện nay, với sự phát triển của ngành y học hiện đại, hầu hết phẫu thuật được tiếp cận qua đường nội soi đảm bảo chức năng và thẩm mỹ cho người bệnh.
Vừa qua, khoa Tai Mũi Họng - Mắt - Răng Hàm Mặt, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế đã thực hiện ca phẫu thuật nội soi mũi xoang điều trị u nhầy xoang sàng - trán gây biến chứng ổ mắt cho một trường hợp bệnh nhân nữ, 54 tuổi, vào viện vì nghẹt mũi và đau nửa đầu bên trái, bệnh nhân được chẩn đoán U nhầy xoang sàng - trán trái biến chứng ổ mắt. Khối u nhầy - sàng trán kích thước #42x31x29mm gây tiêu xương giấy, bộc lộ mạc ổ mắt và mỡ ổ mắt bên dưới (Hình 1A), đồng thời khối u gây biến dạng khuôn mặt, sưng phồng góc trên hốc mắt, mắt trái đẩy lệch ra ngoài (Hình 2A).
Khối u (Hình 1B) đã phá hủy gần như toàn bộ các cấu trúc giải phẫu bình thường ở hốc mũi trái của bệnh nhân. Trong quá trình phẫu thuật, sau khi lấy bỏ toàn bộ khối u có thể thấy khối u ăn mòn vách mũi xoang, xương giấy, chỉ còn lại một lớp mạc ổ mắt rất mỏng, qua đó có thể thấy mỡ ổ mắt và sàn sọ (Hình 1C, D).
Hình 1. A. Khối u chèn ép, đẩy dồn hốc mắt trái trên phim CT scan mũi xoang; B. Hình ảnh khối u qua nội soi; C. Hình ảnh tiêu xương giấy, mạc ổ mắt và mỡ ổ mắt bên dưới (hình hoa thị) ; D. Hình ảnh sàn sọ sau khi lấy hết khối u (hình ngôi sao)
Bệnh nhân được theo dõi hậu phẫu và xuất viện sau phẫu thuật chỉ sau 2 ngày. Với kỹ thuật phẫu thuật hiện tại đang được thực hiện tại khoa Tai Mũi Họng - Mắt - Răng Hàm Mặt hiện nay có thể bộc lộ rõ khối u qua đường nội soi và không nhét các vật liệu cầm máu như mèche hay merocel mà kiểm soát chảy máu trực tiếp trong mổ kèm phủ các vật liệu tự tiêu như surgicel, spongel giúp cải thiện nhiều về triệu chứng đau, chảy máu và rút ngắn thời gian nằm viện cho bệnh nhân.
Hình 2. A. Hình ảnh bệnh nhân trước phẫu thuật (mặt mất cân xứng, sưng phồng góc mắt, mắt trái bị đẩy lệch ra ngoài); B. Hình ảnh bệnh nhân tái khám sau phẫu thuật 3 tuần (mặt cân xứng, hốc mắt trái về lại vị trí giải phẫu).
Bệnh nhân tái khám sau phẫu thuật 3 tuần, triệu chứng lâm sàng cải thiện hoàn toàn, hết nghẹt mũi và đau đầu, tình trạng đẩy dồn hốc mắt trái cải thiện đáng kể.
Tác giả: Hoàng Phước Minh*, Nguyễn Minh Trang, Nguyễn Như Nguyên Anh
Phẫu thuật viên: TS.BS. Hoàng Phước Minh
Khoa Tai Mũi Họng - Mắt - Răng Hàm Mặt, Bệnh viện Trường Đại Học Y Dược Huế