Bệnh nhân H.X.T, nam, 49 tuổi, tiền sử hút nhiều thuốc và sử dụng rượu bia đến khám tại Khoa Răng Hàm Mặt, Bệnh viện Trường Đại học Y – Dược Huế vì vết loét đau rát phần sau hông lưỡi và tam giác hậu hàm, xuất hiện 1,5 tháng trở lại đây với các triệu chứng tăng dần dù đã được điều trị kháng sinh, kháng viêm liều cao > 2 tuần. Thăm khám lâm sàng phát hiện khối u vùng hông lưỡi, tam giác hậu hàm trái có kích thước 30x30x30mm, sờ chắc, đau nhiều, thâm nhiễm xung quanh, bề mặt sùi loét, dễ chảy máu, không ghi nhận hạch vùng trên lâm sàng. Nội soi vòm và hạ họng ghi nhận khối u thâm nhiễm trụ trước amiđan trái. Bệnh nhân được chụp CT-Scan có tiêm thuốc cản quang cho kết quả vùng hông lưỡi có ổ đồng tỷ trọng tự nhiên, ngấm thuốc mạnh thì tĩnh mạch tạo ổ giới hạn ít rõ KT#15x12x17. Kết quả xét nghiệm mô bệnh học cho kết quả Carcinoma tế bào vảy không sừng hóa xâm nhập.
Hình 1. Bệnh nhân trước phẫu thuật.
Hình 2. Khối u sùi loét vùng hông lưỡi và tam giác hậu hàm trái
Bệnh nhân được chẩn đoán: “Ung thư biểu mô tam giác hậu hàm trái xâm lấn gốc lưỡi, thành bên họng, giai đoạn III (T3N0M0)”. Phương án điều trị được đề ra trên bệnh nhân này đó là phẫu thuật mở xương hàm dưới, cắt u rộng rãi, nạo vét hạch cổ có chọn lọc (nhóm I, II, III, IV) và tạo hình khuyết hổng bằng vạt đảo vùng dưới cằm. Đây là một phẫu thuật khó và phức tạp, được Washington Crile đưa ra khái niệm lần đầu tiên và đặt tên “COMMANDO” (Combined Mandibulectomy/Mandibulotomy Neck Dissection Operation) vào năm 1906 nhằm điều trị các ung thư của xương hàm dưới, niêm mạc miệng, nướu, sàn miệng, lưỡi và amidan xâm lấn.
Quy trình phẫu thuật bao gồm:
- Mở xương hàm dưới tạo điều kiện tiếp cận khối u.
- Cắt bỏ rộng rãi khối u đến ranh giới an toàn, tạo hình khuyết hổng bằng vạt đảo dưới cằm trong một thì.
- Nạo vét hạch cổ có chọn lọc nhóm I, II, III và IV.
Hình 3. (a) Cắt bỏ rộng rãi khối u đến ranh giới an toàn; (b) Tái tạo khuyết hổng rộng vùng lưỡi, sàn miệng, thành bên họng bằng vạt đảo dưới cằm và kết hợp xương hàm dưới.
Bệnh nhân được ekip phẫu thuật gồm TS. Nguyễn Văn Minh (khoa Răng Hàm Mặt), TS. Phan Hữu Ngọc Minh (khoa Tai Mũi Họng) cùng các cộng sự tại khoa Gây mê hồi sức của Bệnh viện Trường Đại học Y – Dược Huế phối hợp thực hiện thành công. Sau phẫu thuật, bệnh nhân ổn định, lành thương tốt, chức năng nói, nuốt và thẩm mỹ được bảo tồn tối đa.
Hình 4. Bệnh nhân sau phẫu thuật 10 ngày.
Hình 5. Sau phẫu thuật 10 ngày, vạt lành thương tốt.
TS. Nguyễn Văn Minh, TS. Phan Hữu Ngọc Minh, ThS. Hoàng Vũ Minh, ThS. Võ Khắc Tráng, BS Nguyễn Hoàng Lân
Khoa TMH-M-RHM