"PRP (Platelet-Rich Plasma) được định nghĩa là một phần huyết tương máu tự thân với nồng độ tiểu cầu gấp từ 4-5 lần so với bình thường. Qua nhiều nghiên cứu, PRP đã được chứng minh là có tác dụng cải thiện khả năng tái tạo ở các mô khác nhau trên cơ thể nhờ sự biểu hiện của một số cytokin và yếu tố tăng trưởng. Từ lâu, truyền PRP đã được ứng dụng rộng rãi trong y học với sự cải thiện tế bào trong chấn thương gân, viêm khớp hay các bệnh lý cơ xương khớp khác."

Trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, các báo cáo trên thế giới đã đánh giá vai trò tối ưu của liệu pháp truyền PRP vào lòng tử cung ở những trường hợp theo dõi chuyển phôi có nội mạc tử cung mỏng. Bằng cơ chế điều chỉnh sự di chuyển, gắn kết, tăng sinh, biệt hoá và tân sinh mạch, cải thiện lưu lượng tuần hoàn tại nội mạc tử cung thông qua quá trình giải phóng các cytokin như G-CSF, yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF), yếu tố tăng trưởng biến đổi (TGF), yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc từ tiểu cầu (PDGF) và yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGF), PRP thể hiện rõ tác dụng có lợi đối với khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung.

Nghiên cứu của Tandulwadkar SR và cộng sự năm 2017 trên 68 phụ nữ có độ dày nội mạc tử cung dưới 7mm trong chu kỳ theo dõi chuyển phôi, sau khi truyền PRP, độ dày nội mạc tử cung tăng lên đáng kể, tăng tín hiệu mạch máu power doppler, đồng thời, cải thiện tỷ lệ mang thai lâm sàng có ý nghĩa so với nhóm không truyền. Các nghiên cứu tiến hành những năm gần đây trên đối tượng độ dày nội mạc tử cung mỏng cũng cho kết quả tương tự.

Hiện nay tại Trung tâm, kỹ thuật bơm huyết tương giàu tiểu cầu (platet-rich plasma - PRP) tự thân vào buồng tử cung cho bệnh nhân nữ vô sinh khi có một trong những chỉ định sau: (1) Độ dày nội mạc tử cung mỏng dưới 7mm trong chu kỳ theo dõi nội mạc chuyển phôi trữ trước đó, (2) Thất bại làm tổ từ 2 lần trở lên, (3) Dính buồng tử cung sau can thiệp hoặc sau xử lý dị dạng buồng tử cung và (4) Viêm nội mạc tử cung mạn tính.

PRP tự thân được nhận định là một phương pháp điều trị an toàn, dễ kiếm và rẻ tiền. Trên thực tế, phương pháp này đã và đang được nghiên cứu, ứng dụng tại nhiều Trung tâm Hỗ trợ sinh sản trong và ngoài nước. Các báo cáo gần như không ghi nhận những tác dụng phụ có thể gặp. Với quy trình thực hiện chuẩn và đảm bảo vô khuẩn, phương pháp này có thể giảm bớt gánh nặng về thể chất, tâm lý và có hiệu quả kinh tế cao với những bệnh nhân có nguy cơ huỷ bỏ chu kỳ theo dõi chuyển phôi lặp lại hoặc thất bại làm tổ nhiều lần do nội mạc tử cung mỏng.