Trữ lạnh tinh trùng là kỹ thuật giúp bảo tồn được khả năng sống sót, độ di động, khả năng sinh sản của tinh trùng. Trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, trữ lạnh tinh trùng mang lại giá trị to lớn đối với điều trị vô sinh ở nam giới. Trong số các phương pháp trữ lạnh tinh trùng hiện nay, đông lạnh nhanh và thủy tinh hoá là hai phương pháp hiệu quả và được áp dụng phổ biến.

Đông lạnh nhanh là kỹ thuật trữ lạnh truyền thống, phương pháp này yêu cầu sự tiếp xúc trực tiếp giữa dụng cụ chứa mẫu và hơi Nitơ trong khoảng thời gian khoảng 10 phút và sau đó sẽ được nhúng trực tiếp vào Nitơ lỏng ở nhiệt độ -1960C. Phương pháp này tương đối đơn giản, dễ thực hiện, không cần máy móc thiết bị đắt tiền. Trong khi đó thủy tinh hóa là kỹ thuật trữ lạnh tinh trùng nhanh hơn dựa trên tốc độ làm lạnh cực nhanh để ngăn chặn sự hình thành các tinh thể đá bên trong tế bào.

Bên cạnh những lợi ích mà trữ lạnh tinh trùng mang lại, quy trình trữ - rã đông có thể gây tổn hại đến chức năng của tinh trùng, chẳng hạn như gây tổn thương màng tế bào, tăng sản xuất cái gốc oxy hóa phản ứng (ROS) và dẫn đến sự đứt gãy DNA tinh trùng. Việc tối ưu hóa quy trình trữ lạnh tinh trùng là cần thiết để giúp giảm thiểu tổn thương lên tinh trùng và tăng hiệu quả của hỗ trợ sinh sản.

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về các phương pháp trữ lạnh tinh trùng. Tuy nhiên, bằng chứng về hiệu quả cũng như nên ưu tiên lựa chọn phương pháp nào vẫn chưa có sự đồng thuận.

Để làm rõ vấn đề này, HueCREI đã tiến hành nghiên cứu so sánh ảnh hưởng của hai phương pháp đông lạnh nhanh và phương pháp thủy tinh hóa đến khả năng di động, sức sống và hình thái của tinh trùng trong các mẫu đã qua lọc rửa và mẫu chưa lọc rửa.

Nghiên cứu thực hiện trên 105 mẫu tinh dịch tươi, chia thành 2 nhóm: nhóm được lọc rửa và nhóm không lọc rửa. Sử dụng phương pháp ly tâm trên thang nồng độ để tiến hành lọc rửa tinh trùng. Ở mỗi nhóm tiếp tục được chia thành 2 nhóm nhỏ: một nhóm bảo quản bằng phương pháp đông lạnh nhanh và nhóm còn lại sử dụng phương pháp thủy tinh hóa tinh trùng.

Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự giảm đáng kể về khả năng di động tiến tới, tỷ lệ tinh trùng sống và tinh trùng có hình thái bình thường cùng với sự gia tăng các bất thường phần đầu, cổ, đuôi ở tất cả các nhóm sau rã đông. Trong đó, khả năng vận động cũng như sức sống sau rã đông ở nhóm trữ lạnh thông thường cao hơn nhóm thủy tinh hóa. Tuy nhiên, nhóm thủy tinh hóa lại cho kết quả tốt hơn về tỷ lệ tinh trùng có hình thái bình thường. Ngoài ra, mẫu được lọc rửa cho kết quả sau rã đông tốt hơn mẫu không xử lý.

Như vậy, phương pháp đông lạnh nhanh mang lại khả năng di động và tỷ lệ sống cao hơn ở cả 2 nhóm mẫu được lọc rửa và nhóm không lọc rửa. Ngược lại, tinh trùng trải qua quá trình thủy tinh hóa lại cho kết quả tốt hơn về mặt hình thái, ít bất thường phần đầu, cổ, đuôi hơn so với phương pháp đông lạnh nhanh. Hơn nữa, việc lọc rửa tinh trùng trước khi trữ lạnh có thể là một bước chuẩn bị có lợi cho trữ lạnh tinh trùng.

Trích dẫn (Citation): Minh Tam Le, Thi Thai Thanh Nguyen, Thanh Tung Nguyen, Van Trung Nguyen, Thi Tam An Nguyen, Vu Quoc Huy Nguyen, Ngoc Thanh Cao. Cryopreservation of human spermatozoa by vitrification versus conventional rapid freezing: Effects on motility, viability, morphology and cellular defects. European Journal of Obstetrics & Gynecology and Reproductive Biology 234 (2019) 14–20. https://doi.org/10.1016/j.ejogrb.2019.01.001.